Giang Đông Song Bích

Chương 10: Hạ bi

Editor: Vện

Lúc này đã là cuối thu, đường về huyện Thư đổ mưa tầm tã, Chu Du mới đi ba ngày đã hối hận, đường sá lầy lội dính dấp, trời chuyển lạnh, bánh xe lún xuống vũng lầy, mọi người phải xuống đẩy xe. Chu Du thầm nghĩ, sớm biết vậy không nên từ chối yêu cầu phái binh hộ tống của Tôn Sách, nhưng Tôn Sách đã tự ý rời vị trí, phải về lãnh quân côn của Tôn Kiên. Từ ngày đầu quen biết Tôn Sách, hắn toàn mang lại vô số phiền phức cho y, thôi thì bớt được chút nào hay chút ấy.

Chu Du cao lớn, sức cũng mạnh, xuống đội mưa đẩy xe nửa chặng đường, lạnh ngấm tận xương. Dọc đường đã uống vài chén canh gừng chống rét, chỉ sợ chưa về đến nhà đã ngã bệnh.

Đi tròn nửa tháng, tiết trời khi tốt khi xấu, Chu Du vốn định đưa đoàn xe về huyện Thư rồi cấp tốc chạy tới Thọ Xuân, đến chỗ Viên Thuật chờ hội họp với Tôn Sách. Nhưng vạn nhất về nhà nhiễm phong hàn, không chừng phải nằm tịnh dưỡng mấy tháng… Chu Du nghĩ đến là nhức đầu.

May mà dọc đường tuy khó khăn hiểm trở, nhưng chung quy vẫn bình an vô sự, lúc về đến huyện Thư, toàn thị trấn chấn động.

Chu Du uể oải không chịu nổi, về nhà, mẹ Chu đang chờ.

“Về rồi?” Mẹ Chu nói.

“Về rồi.” Chu Du nói, “Xe cũng mang về, không thiếu một người.”

Ngoài cửa người đến tạ ơn liên tục, mẹ Chu nóng gan nóng ruột, nay con trai đã về, tảng đá trong lòng buông xuống, vào phòng thay trường bào trang trọng, ra ngoài sân.

“Chu lão phu nhân!”

“Chu thiếu gia.”

“Đại ân đại đức của Chu gia…”

Mẹ Chu ra hiệu mọi người im lặng, sau đó bái lạy các hương thân.

Toàn sân náo động, Chu Du vội đỡ mẹ già, cùng bà lạy các hương thân ba lạy.

“Con ta ở huyện Thư từ nhỏ đến lớn…” Mẹ Chu nghiêm túc nói, “Đều nhờ các vị phụ lão hương thân chiếu cố, cũng nhờ các vị mà sản nghiệp tơ lụa mới có quy mô hôm nay, lúc này xuất lực đền đáp vốn là bổn phận, sao gánh nổi hai chữ tạ ơn?”

“Từ sau khi vong phu tạ thế, mẹ con ta toàn dựa vào các vị, bây giờ ta thay vong phu và con nhỏ không hiểu chuyện cảm tạ công ơn các vị xưa nay săn sóc.” Mẹ Chu cười nói, “Mời các hương thân về, ơn cứu mạng gì đó đừng nhắc lại nữa. Thường ngày có chuyện gì kính xin các vị cứ việc phân phó.”

Mọi người cứ mãi tạ ơn, bấy giờ mới để lại lễ vật, lùi ra.

Đêm đó, mẹ Chu tỉ mỉ ngắm nhìn gương mặt Chu Du dưới ánh nến, không nhịn được xoa đầu hắn, thở dài, “Người của Tôn gia đã báo tin cho mẹ, mấy ngày nay mẹ trằn trọc không yên.”

Chu Du kể rõ chuyến đi Lạc Dương với mẹ Chu, mẹ Chu cũng đã biết trước một phần, giải thích, “Người của Kiều gia cũng đến hỏi thăm tình hình con thế nào, đã rời khỏi Lạc Dương chưa, xem ra Kiều thái thú rất lo cho con.”

Chu Du gật đầu, hai mẹ con nhất thời im lặng, hồi lâu sau mẹ Chu đứng dậy, nhìn mưa ngoài hành lang, nói, “Lần này chúng ta nhận ân tình của Tôn gia, thật sự không biết lấy gì báo đáp. Bá Phù là đứa trẻ ngoan, khi bé đến nhà chúng ta cha con đã cực kỳ thích, Tôn tướng quân vẫn luôn quan tâm chúng ta…”

“…Bá Phù sẽ không bàn việc ân tình đâu.” Chu Du uống ngụm trà nóng, nói, “Mẹ, con đã đồng ý với y, phải đến Thọ Xuân.”

“Mẹ cũng định nói thế.” Mẹ Chu đáp, “Hai năm nay, mẹ luôn lo cho con, giờ nghe con nói vậy, cuối cùng cũng thở phào được rồi. Mẹ không sợ con ra ngoài không người chăm sóc, chỉ sợ con lưu luyến gia đình mà sống uổng một đời, kinh qua một kiếp tầm thường vô vị.”

“Mẹ.” Hai mắt Chu Du đỏ ửng.

Mẹ Chu mỉm cười ngồi xuống, nói, “Khi còn sống, cha con là bằng hữu với Tôn tướng quân, bây giờ con hắn đã lớn, con mẹ cũng trưởng thành, tiền đồ con mẹ không thể thua kém con trai Tôn tướng quân được, con biết mình nên làm gì, trong lòng con có chí hướng mà. Mấy năm qua thấy con loanh quanh trong nhà, tuy nói trông coi chuyện làm ăn, quản lý gia nhân, nhưng mẹ biết, đó không phải việc con thật lòng muốn làm, có đúng không?”

“Chỉ là con không yên lòng về mẹ.” Chu Du nói, “Trước mắt không biết Thái thú Trường Sa có dừng chân ở Thọ Xuân lâu không.”

Mẹ Chu nói, “Con cứ đi, đến góc bể chân trời, nếu không yên lòng về mẹ, lúc đó mẹ bán cửa tiệm, cuốn mùng mền theo con là được. Cha con là hảo hán, con trai mẹ cũng có thể gầy dựng sự nghiệp. Không nghe người ta nói gì sao? Trên đời này, phàm là nam nhi, luôn có hai người một lòng một dạ đặt kỳ vọng vào hắn, thứ nhất là mẹ, thứ hai là vợ.”

Chu Du bị chọc cười, nói, “Vâng, mai con sẽ lên đường, ở nhà…”

“Không phải lo.” Mẹ Chu nói, “Con chỉ cần làm một người tốt, tập trung làm việc, mẹ ở nhà nghe được mới vui lòng, thời khắc nào cũng ngóng trông gặp lại, mai này mẹ đến Thọ Xuân cũng được thơm lây, con thấy có phải không?”

Chu Du đỏ vành mắt, gật đầu, nhìn mẫu thân.

Mẹ Chu xoa đầu Chu Du, ôm hắn.

Chu Du định ngày mai khởi hành đến Thọ Xuân, nhưng dọc đường gió lạnh nhập thể, toàn chống đỡ bằng ý chí, về nhà rồi thả lỏng, ngay đêm đó sốt cao, ngã bệnh nặng.

Hôm sau mẹ Chu gọi mãi không tỉnh, sờ trán nóng hầm hập mới biết chuyện nghiêm trọng, vội mời danh y đến khám. Quý phủ rối loạn, Lỗ Túc nghe tin Chu Du về nhà, đích thân qua thăm, lại lên Cô Sơn mời đại sư Trí Tĩnh bốc thuốc châm cứu, dùng hết mọi cách mới tạm làm bệnh thuyên giảm.

Chu Du bệnh đến bất tỉnh nhân sự mà còn muốn gặp Tôn Sách đúng hẹn, chỉ lo trễ hành trình, mấy lần gượng dậy muốn đi, cuối cùng bị Lỗ Túc đánh một quyền nằm tại chỗ.

“Nói thiệt coi, rốt cuộc có tình cảm với Tôn Bá Phù không đó?” Lỗ Túc ngồi bên giường Chu Du, cắt một khúc nhân sâm, hỏi.

Chu Du mệt mỏi lườm hắn một cái, cổ họng đau rát, mũi sụt sịt, không có sức vờn qua vờn lại.

“Tôn gia hứa cho ngươi chức quan gì?” Lỗ Túc lại hỏi.

Chu Du không trả lời.

“Mấy thạch lương thực?”

Chu Du không lên tiếng.

“Phong mấy hộ hầu?” Lỗ Túc hỏi tiếp.

“…”

“Ngươi nghĩ ngươi là Tiêu Hà* hả?” Lỗ Túc nói, “Đừng giấu ta.”

*Một Thừa tướng của nhà Hán, có công giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang xây dựng sự nghiệp trong thời kỳ Hán Sở tranh hùng.

Chu Du, “Huynh yên lặng chút được không, cắt trúng tay bây giờ.”

Lỗ Túc buồn cười, nói, “Nếu Tôn gia thành vương xưng bá, ngươi cho là ngươi có thể thao túng được sao? Lý Tư Hàn Phi Hoắc Khứ Bệnh, Bạch Khởi Hàn Tín Lã Bất Vi*…”

*Tất cả những nhân vật trên có công lớn giúp chủ công xây dựng triều đại, nhưng cuối cùng đều chết do bị hãm hại hoặc tài cao át chủ.

Chu Du, “…”

Chu Du ốm yếu nói, “Lỗ Tử Kính, dạo này miệng huynh độc địa quá đấy.”

Lỗ Túc không nói gì, chỉ lo cắt nhân sâm. Chu Du nhìn đỉnh màn xuất thần, chưa đến một khắc, Lỗ Túc hỏi, “Nếu không định xưng vương xưng bá, ngươi đi làm gì?”

Chu Du đáp, “Tôn Bá Phù không phải người như vậy.”

Lỗ Túc cười cười, “Tặng ngươi một câu, người khôn giữ mình.”

“Cảm tạ.” Chu Du đáp, “Tuy huynh ăn nói khó nghe, nhưng ta biết huynh muốn tốt cho ta.”

Lỗ Túc nghiêm túc thả từng lát nhân sâm vào nồi nấu canh sâm, đêm đó lên giường ngủ cùng Chu Du. Sáng hôm sau, Chu Du uống canh nhân sâm, mang lộ phí, mặt còn nhợt nhạt, sợ đánh thức mẫu thân, nhân lúc sông núi còn mờ sương rời khỏi huyện Thư.

“Đi đây, bảo trọng.” Chu Du nói.

“Đi đường cẩn thận.” Lỗ Túc nói, “Có việc gì phái người truyền tin.”

Hôm sau, Lỗ Túc dọn qua nhà Chu Du, sáng sớm mẹ Chu thức dậy, Lỗ Túc vào thỉnh an, mẹ Chu mới biết con trai ôm bệnh lên đường, mặt bất đắc dĩ.

“Bệnh còn chưa khỏi.” Lỗ Túc nói, “Khuyên cách mấy cũng không nghe.”

Mẹ Chu nói, “Đành theo ý nó vậy, tính tình nóng nảy y hệt cha nó, thôi thôi.”

Lỗ Túc nhoẻn cười.

Cùng lúc đó, Chu Du chạy lên phía Bắc hướng đến Thọ Xuân, lần này tâm tình khác hẳn lần trước. Hắn khoác áo lông cừu, đầu đội mũ lông sói, hơi thở trắng xóa tan theo tuyết đầu đông, không khí hết sức trong lành.

Trong hành trang là bốn trăm lượng vàng ròng nặng trịch, chưa được mấy ngày đã đến Thọ Xuân, sự kiện liên quân diệt Đổng đã qua hơn một tháng, sau khi phân chia của cải ở Lạc Dương, mười tám lộ chư hầu tan rã trong bất bình, từng người quay về đất phong. Chu Du mang thư của Lỗ Túc vào thành, vừa vào đã cảm khái nơi này quá rộng lớn phồn vinh, có thể so với khung cảnh sầm uất ngày xưa.

Thọ Xuân ở phía Bắc huyện Thư, là một trong hai thành lớn nhất khu vực Dương Châu. Từ khi Hoài Nam vương Lưu An tiếp nhận nơi này, truyền thuyết kể ông đã khơi thông tám long mạch phía Bắc Thọ Xuân, đông ấm hạ mát, nước sạch trong vắt, dân chúng đổ về, chưa đến trăm năm đã trở thành nơi tập trung giao dịch buôn bán, thóc gạo chất đống.

Tháng đầu đông, dân chúng trong ngoài thành nghỉ trồng trọt, an cư lạc nghiệp, lửa chiến tranh Trung Nguyên không hề ảnh hưởng chốn này, nhà ngói hai bên hồ vẫn đượm không khí yên bình.

Chu Du dắt ngựa qua phố xá náo nhiệt, trước hết hỏi thăm binh mã của Tôn Kiên, người dân đều nói không biết, Chu Du dùng thư của Lỗ Túc vào phủ quan địa phương, Lệnh tào thấy thư tiến cử, Chu Du còn nói rõ ý định đến đây, chiều hôm ấy liền đưa hắn đến thẳng quý phủ Thọ Xuân.

Phủ Thọ Xuân chính là nơi trú đông của Viên Thuật, sau khi diệt Đổng, Viên Thuật đổi tên thành phủ Hậu tướng quân. Chu Du vừa vào đã có vệ binh dẫn đường đến chính viện, giao cho Ti sự. Trong sân là hòn non bộ cổ kính, tiếng nước chảy róc rách, xung quanh trồng đủ tám loại tùng, nhìn thân cây ắt cũng hơn trăm tuổi.

Ti sự nói, “Hậu tướng quân đang nghị sự với Thái thú Ngô Quận Hứa Cống Hứa đại nhân, xin Chu công tử chờ một lát.”

Chu Du gật đầu, tôi tớ dâng món điểm tâm, để Chu Du ngồi uống trà ở tiền sảnh. Chu Du nhìn các món trang trí, tất cả đều là bàn ghế giá trị liên thành, đến cái bàn thấp chặn cửa cũng làm bằng gỗ sưa, bình ngọc ngà voi trên giá hẳn là cướp từ Lạc Dương.

Chu Du biết nhà mình giàu nhưng vẫn chưa bao giờ được dùng đồ vật cỡ này. Khi còn sống, Chu Dị thường nói, gia tài bạc vạn cũng không bằng đầy bụng thơ văn. Thường ngày ít được thấy, Chu Du không khỏi ngắm nghía lâu hơn.

Mãi đến khi trời xẩm tối, trong phủ đốt đèn, vẫn không có ai đến gọi Chu Du. Chu Du không giận, vẫn lẳng lặng ngồi đó, nếu gặp Tôn Sách chắc đã đứng lên bỏ về lâu rồi. Nhưng Viên Thuật địa vị thế nào? Khoan nói bản thân hắn không có chức quan, dù là phụ thân làm Huyện lệnh Lạc Dương có đến cũng phải chờ thôi.

Trước khi đi, mẫu thân đã nhiều lần nhắc nhở ngày xưa phụ thân làm người, làm việc, làm quan ra sao.

Sau khi đi, Chu Du nhớ đến Chu Dị, nếu dắt theo hắn phụ thân sẽ làm gì, nói gì, thế là kiên nhẫn ngồi chờ hết buổi chiều.

Rốt cuộc tiền sảnh cũng sáng ánh đèn, một quản sự đến nói, “Tướng quân cho mời Chu công tử.”

Chu Du biết cuối cùng cũng chờ được, lúc còn ở huyện Thư, thường nghe nói Viên Thuật thích người tài, muốn mua quan bán chức không hẳn là không thể. Nhưng đặt chân nơi đất khách quê người, chỉ cần được ở tạm là đủ rồi.

“Ồ, Chu thế chất!”

Chu Du chưa đến đã nghe một giọng trung niên hùng hậu truyền ra từ trong chính sảnh, biết nhất định là Viên Thuật, lập tức đeo lên vẻ mặt hoan hỉ, một thân phong trần mệt mỏi, bái hướng Viên Thuật, nói, “Tiểu chất bái kiến Viên thế bá.”

“Mau đứng lên mau đứng lên.” Viên Thuật đích thân đỡ hắn, người trung niên bên cạnh cười ha ha, nói, “Quả nhiên là ngươi.”

Chu Du vừa định thần, thấy là Kiều Huyền đã lâu không gặp.

Kiều Huyền gặp lại Chu Du liền thổn thức, Kiều Huyền râu tóc hoa râm, nhịn không được run rẩy, hồi lâu không thốt nên lời, nói với Viên Thuật, “Trong biển lửa Lạc Dương, Chu thế chất nhường ngựa cho lão hủ chạy thoát, sau khi về Dương Châu, lão vẫn thường hối hận…”

“Rồi rồi!” Viên Thuật vung tay, cười nói, “Người đã trở lại, không cần nói thêm nữa! Qua đây, Chu Du, vị này là Hứa Cống Hứa thế bá, năm xưa cũng qua lại thân thiết với cha ngươi.”

Viên Thuật lại dẫn Chu Du gặp một người trung niên ở ghế khác, Chu Du biết đây là Thái thú Ngô Quận Hứa Cống, liền lễ phép bái chào. Hứa Cống gật đầu, Viên Thuật thân thiết kéo tay Chu Du ngồi xuống.

Tổ tiên Chu Du làm quan, ông nội Chu Cảnh làm đến chức Thái úy, xét nghiêm túc thì đúng là có tình thế giao với Viên gia. Mới đầu Viên Thuật ôn tình nghĩa tổ tiên với Chu Du, lại nhắc đến những chuyện khi cha Chu Du còn sống. Viên Thuật nói, “Chuyện của cha ngươi, ta vốn muốn đến phúng viếng, nhưng không đi được…”

Chu Du vội nói, “Sau đó Hậu tướng quân có cho người mang thư đến, mẹ ta vô cùng cảm kích, bảo ta đến Thọ Xuân, đầu tiên phải đến cửa đa tạ Viên thế bá.”

Viên Thuật cười hà hà, luôn miệng tán thưởng, lại nói, “Vừa rồi cũng nghe Kiều lão nói, ngươi tuổi trẻ tài cao, có gan xả thân cứu người, còn có thể sống sót thoát khỏi hiểm cảnh Lạc Dương, người trẻ tuổi! Ta bội phục!”

Hứa Cống và Kiều Huyền mỉm cười, Chu Du liền khiêm tốn, đang định nói chuyện Tôn Sách, lại thấy ánh mắt ngập ngừng của Kiều Huyền mới hiểu rõ, không nên nhắc đến Tôn Kiên.

“Chu Du.” Viên Thuật hỏi, “Tương lai có tính toán gì không?”

Chu Du ngồi ghế khách, giương mắt nhìn Viên Thuật.

Chỉ thấy Viên Thuật tướng mạo đường hoàng, vóc dáng khôi ngô, râu dài nho nhã, hông đeo ngọc bội bạch ngọc, người khoác trường bào, phong độ ngời ngời.

“Không có.” Chu Du thành khẩn nói, “Hiện tại thiên tử lang bạt đầu đường xó chợ, Đổng tặc chưa đền tội, thiên hạ ngóng trông Viên thế bá đảm đương trọng trách, lần này đến Thọ Xuân, tiểu chất chỉ mong cống hiến sức lực theo làm tùy tùng cho thế bá, tận tâm tận lực.”

Viên Thuật thở dài, thổn thức rằng, “Ngươi có lòng như vậy, không phụ công phụ thân ngươi khi còn sống, trước mắt nhiều thế lực phân tranh, Viên gia ta tuy mạnh cũng không thể thành công, thôi! Hôm nay không nói chuyện này. Ngươi đã đến, ta rất vui, nhìn ngươi cứ ngỡ cha ngươi vẫn còn ở đây, mấy ngày nay cứ ở lại quý phủ thế bá, nào! Bày rượu!”

Tảng đá trong lòng Chu Du buông xuống, biết Viên Thuật đã chấp nhận mình. Mặc dù Viên Thuật đối xử với các chư hầu mỗi người mỗi thái độ, nhưng chỉ cần là người trí thức thì sẽ yêu thích chiêu mộ, huống hồ Viên gia là đại gia tộc bậc này.

Đêm đó, Viên Thuật bảo người bày tiệc rượu, cùng Hứa Cống Kiều Huyền uống rượu mua vui, Chu Du không dám nói lung tung, mỉm cười ngồi theo. Mãi đến lúc tiệc tàn, Kiều Huyền mới kéo tay Chu Du, dặn dò vài câu, bảo sau này lại tìm Chu Du nói chuyện, Viên Thuật cầm chén rượu, loạng choạng đi lòng vòng, muốn tìm người uống tiếp.

Chu Du vội tiến lên đỡ, nhưng Hứa Cống Kiều Huyền vừa đi, Viên Thuật lập tức khôi phục nét mặt tỉnh táo, hiển nhiên chưa từng say.

“Chu Du, đi theo ta.” Viên Thuật ra lệnh.

Chu Du biết Viên Thuật làm vậy tức là đã xem hắn như người mình, liền theo sau, vào thư phòng. Viên Thuật hỏi kỹ càng việc nhà Chu Du, Chu Du mở bao hành trang, lấy thư Lỗ Túc đã giao cho hắn và lễ vật chuẩn bị sau khi vào Thọ Xuân, cung kính dâng đến trước mặt Viên Thuật, nói, “Đây là chút lòng thành mẫu thân bảo tiểu chất đưa cho thế bá.”

“Ồ.” Viên Thuật liếc qua hộp, bên trong đựng một viên dạ minh châu, liền sai người cất đi.

Chu Du trầm mặc đứng bên cạnh Viên Thuật, không nói thêm nữa, Viên Thuật lại hỏi, “Kinh thư học hành thế nào?”

Chu Du đáp, “Tuân di huấn của tiên phụ, không dám lơ là, lúc nào cũng ôn luyện.”

Viên Thuật tự lẩm bẩm, “Thế là rất quen pháp lệnh phải không?”

“Vâng.” Chu Du cung kính thưa.

Viên Thuật nói, “Vậy thế bá cho ngươi một đề thi.”

Chu Du mài mực cho Viên Thuật, Viên Thuật vung bút lông, ra đề, đúng như dự đoán, là khảo sát kết hợp hai loại Minh Kinh và Minh Pháp. Chu Du cầm đề thi, biết Viên Thuật muốn thử tài để an bài cho hắn một chức quan, liền nhấc bút, vừa đặt bút còn hơi trúc trắc, càng về sau viết càng nhanh, liền mạch lưu loát. Xem xét pháp chế, sử dụng cùng lúc Minh Kinh, Minh Pháp và Nho Pháp, đề của Viên Thuật bao gồm cả hai người, Chu Du không thể không làm nghiêm túc.

Viên Thuật nheo mắt, tay cầm chén trà, phần lớn thời gian đều quan sát nét mặt Chu Du.

“Ngươi ngồi ngay ngắn, người cao lưng thẳng rất đẹp.” Viên Thuật đột nhiên nói, sau đó cười ha ha.

Chu Du lúng túng, vội nói, “Thế bá quá khen.”

“Có phải lúc nhỏ cha ngươi thường cầm gậy gác lưng không!” Viên Thuật cười nói.

Chu Du cười đáp, “Đúng vậy, lúc học viết chữ cha luôn đứng cạnh gác lưng.”

“Ồ.” Viên Thuật nói, “Không tồi, thanh niên tuấn kiệt, vừa có tài vừa khôi ngô.”

Chu Du cười khiêm nhường, thư phòng lại yên tĩnh. Không lâu sau, Chu Du nộp bài, hai tay trình lên Viên Thuật, văn không làm khó được hắn, Viên Thuật vừa đọc vài dòng liền gọi người vào, phân phó, “Đưa bài văn này cho Dương Hoằng xem.”

Dương Hoằng là Trưởng sử dưới trướng Viên Thuật, Chu Du biết hẳn là nhờ Dương Hoằng sắp xếp chức vị cho hắn, Viên Thuật lại nói, “Theo ta dạo vườn hoa một lát đi.”

Chu Du vui vẻ đứng dậy.

Đêm khuya, ánh lửa lập lòe, Viên Thuật chắp tay sau mông đi trước, Chu Du cung kính theo sau. Viên Thuật suy nghĩ một chốc, hỏi, “Mi hầu trốn đến Tây Trường An, ngươi thấy thế nào về thế cuộc Lạc Dương?”

Chu Du trầm ngâm một khắc, nói, “Lạc Dương tuy là vương đô, nhưng bị một đuốc thiêu rụi, thực tế đã không còn quan trọng. Ngược lại là Nam Dương, từ xưa Nam Dương đã là vùng binh gia giao tranh…”

“Nói rất đúng.” Viên Thuật nói, “Ta phái Tôn Văn Đài đến Nam Dương, hiện tại hắn án binh bất động. Lạc Dương đã thành phế tích, trong thời gian ngắn không thể quay lại.”

“Nếu thế bá có ý định lấy Lạc Dương, có thể lệnh cho Tôn tướng quân chia quân trấn thủ Nam Dương và Hàm Cốc Quan.” Chu Du nói, “Thế thì ngoại trừ quân Lương Châu ở Mã Đằng, tất cả chư hầu muốn phát binh diệt Đổng phải vượt qua Hàm Cốc Quan.”

Viên Thuật thở dài một hơi, nói, “Cái tên Tôn Văn Đài không nghe chỉ huy, đâu dễ như ngươi nói.”

“Tôn gia đang đóng quân ở Lạc Dương à?”

“Ừm.” Viên Thuật đăm chiêu.

Chu Du lại nói, “Đổng Trác bắt thiên tử trốn về Tây, trên thực tế, Lạc Dương chẳng còn giá trị, mấy nơi như Từ Châu, Kinh Châu mới là khu vực chiến lược, theo tiểu chất thấy, chi bằng lệnh cho Tôn tướng quân tạm thời lui về giữ quận Nam Dương.”

“Lưu Biểu sẽ không chắp tay nhường lại Kinh Châu.” Viên Thuật nói, “Con hồ ly già đó từ chối xuất chiến diệt Đổng, ngươi cảm thấy nếu ta phát lệnh, liệu hắn có quy phục không?”

Chu Du lắc đầu, nói, “Sớm muộn gì cũng phải đánh một trận ở Kinh Châu, nhưng không nên vội, Lưu Biểu là hoàng thân quốc thích, lại cố ý cố thủ, nói trắng là không đứng về phe ai. Lúc này mà ra tay thì không thu được lòng người.”

Viên Thuật cười cười, vuốt râu, Chu Du biết trong bài khảo tình hình chiến đấu, hắn không chung ý với Viên Thuật, không khỏi âm thầm thở dài.

“Thôi.” Viên Thuật miệng không lọt gió, thân thiết bảo Chu Du, “Ngươi nghỉ ngơi trước đi, mai ta cho người đến gọi.”

Chu Du khom người cáo từ Viên Thuật.