Lộ

Chương 7

Mặt trời lên cao, Khâu Giác Phi đầu đầy mồ hôi, thống khổ không chịu nổi bước chân: “Thật đúng là khi lên voi lúc xuống chó.”

Giang Sầu Dư mở ấm nước ra đưa cho anh: “Hả?”

Khâu Giác Phi nhận lấy, nhấp môi: “Tôi thề với trời, sau này không chạm vào một chén rượu nào nữa!”

Giang Sầu Dư lạnh nhạt nói: “Bát rượu thì sao? Vò rượu?”

Đổng Chi Hiệp quay đầu lại cười to: “Giang huynh nói đúng lắm, mau chặt đứt đường lui của cậu ta!”

Khâu Giác Phi giơ hai ngón tay chỉ lên trời: “Khâu mỗ tôi hôm nay thề với trời, đời này kiếp này, không uống rượu!”

Giang Sầu Dư ngẩng đầu lên, nhẹ như gió thổi mây trôi đáp: “Tôi giúp cậu ghi nhớ kĩ.”

“Ấy, đang nói gì đấy?” Phạm Nhân Kiệt bước chậm lại, “Đúng rồi, các tiên sinh đâu?”

Khâu Giác Phi quay đầu lại nhìn xung quanh: “Hơn phân nửa chắc là còn đang ở phía sau.”

“Dù sao cũng vẫn là những người văn chính công hậu,” Đổng Chi Hiệp cảm khái nói, “Chỉ đi đường lớn đường ngay thẳng, không đi đường cong đường tắt, là tấm gương sáng cho học trò.” (1)

Phạm Nhân Kiệt châm chọc cậu ta: “Đã làm gương cho cậu, vậy cậu cũng đừng đi gần chúng tôi nữa, cũng đi đường lớn đi?”

Giang Sầu Dư bệnh nặng mới khỏi, đi nửa ngày đường đã hơi mệt, lại thấy Khâu Giác Phi bên kia say rượu, sắc mặt cũng khó coi, liền bảo: “Giác Phi, có muốn nghỉ ngơi một chút không?”

Khâu Giác Phi lắc đầu: “Thôi, tôi nghe lão tiên sinh nói, đêm nay chúng ta sẽ phải tới được Vĩnh Ninh.”

Dựa theo lộ tuyến đã lên kế hoạch trước đó, từ Vĩnh Ninh tới Bình Di mọi người đổi sang đi ô tô, sau đó lại đi bộ từ Bình Di tới Côn Minh.

“Còn mấy chục dặm đường.” Giang Sầu Dư nhìn sơn đạo lên xuống trập trùng u buồn nói.

Khâu Giác Phi nhún vai, chẳng chút để ý nói: “Lộ mạn mạn kì tu viễn hề!”

Đổng Chi Hiệp đáp tiếp: “Ngô bối tương thượng hạ nhi cầu tác!”*

*Dịch nghĩa: Đường dài mờ mịt lại xa xôi – Chúng ta phải cố tìm lấy vầng thái dương trong lòng mình. Câu thơ biểu đạt tâm cầu tiến, tích cực.

Đây là hai câu thơ trong 《 Ly tao 》 của Khuất Nguyên.

Thấy họ cảm xúc trào dâng, Giang Sầu Dư cũng lên tinh thần: “Được rồi, tôi cũng phải nỗ lực lên, quyết không thể đi sau các phu tử được.”

Tới khoảng tám, chín giờ tối, hơn hai trăm người rốt cuộc mới tập hợp được ở Vĩnh Ninh, bởi nơi này nhiều người Miêu, khoảng thời gian trước lại có bọn thổ phỉ náo loạn, bá tính ít nhiều có chút sợ hãi không dám thu nhận giúp đỡ người bên ngoài. Huyện trưởng địa phương bất đắc dĩ, ngoài một hai miếu thờ rách nát và học đường, cuối cùng ngay cả Huyện nha cũng nhường cho họ.

“Đây là cái miếu gì vậy, thần tiên được cúng bái này tôi chưa từng thấy bao giờ!” Đổng Chi Hiệp vừa vào đã quang quác cái mồm.

Tôn Hành chắp tay sau lưng, cố tình ra vẻ thần bí: “Tôi dám phán định, nhất định là cổ thần Nam Cương, cổ độc của người Miêu không phải các cậu cũng từng nghe tới hay sao? Tôi thấy tám phần là tà thần kia.”

“Nói vậy không tốt lắm đâu?” Khâu Giác Phi do dự, “Đang ở địa bàn của người ta, vẫn nên tôn trọng tín ngưỡng địa phương, đừng nói quá lên.”

“Là thượng đế.” Giang Sầu Dư đột nhiên cất lời.

“Cậu đang nói đùa à?” Phạm Nhân Kiệt chỉ vào tượng thần kia cười lăn cười lộn, “Cậu đã thấy thượng đế nào có bộ râu quai nón đẹp như thế kia chưa?”

“Không phải,” Giang Sầu Dư chỉ vào chân tượng, “Các cậu xem, đây là tiếng Latin – thượng đế chúc phúc cho con dân của mình.”

Phạm Nhân Kiệt thò đầu lại nhìn, kinh ngạc hô lên: “Không sai, tuy rằng nhìn không ra tiếng Latin, nhưng bên cạnh kia hẳn là giá chữ thập không sai.”

Đổng Chi Hiệp trầm tư: “Cũng không phải là không có khả năng, bọn mọt Thanh đầu hàng, vùng Tây Nam có rất nhiều người tới đây hoạt động truyền giáo, các cậu đừng quên, Hồng Tú Toàn* còn không phải là người Quảng Tây.”

*Hồng Tú Toàn: tự là Hỏa Tú, xuất thân từ một gia đình người Khách Gia là lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân Thái Bình Thiên Quốc chống lại triều đình Mãn Thanh. Ông tự xưng là Thiên Vương, thành lập Thái Bình Thiên Quốc và từng chiếm lĩnh nhiều vùng đất rộng lớn ở miền nam Trung Quốc. Ông tự xưng là em trai của chúa Jesus.

“Phong tục mấy ngàn năm, sau khi bị tôn giáo lũng loạn, cũng có thể cải biến tới lợi hại như vậy.” Khâu Giác Phi ôm tay, “Các cậu có còn nhớ người Miêu chúng ta gặp được ở Tương Tây không? Họ thậm chí còn không biết bây giờ đã là Dân quốc, còn tưởng hoàng đế Mãn Thanh vẫn ngự trị thiên hạ, ngu muội lạc hậu nhưng lại chất phác thiện lương.”

“Cậu đang muốn nói gì?” Tôn Hành bị anh xoay vòng tới hồ đồ.

Giang Sầu Dư cười nhẹ: “Tôi đoán Khâu giáo sư của chúng ta muốn nói, Trung Quốc sở dĩ bần cùng lạc hậu, một nguyên nhân rất lớn trong đó là dân trí chưa mở, thiên tính của người dân lại thiện lương dễ lừa, dễ giấu, muốn nước mạnh dân giàu, chỉ dựa vào số ít thiên tài hoặc cường đạo kia, chỉ sợ là người si nói mộng.”

“Chủ nghĩa Bismarck* đã từng rất thịnh hành.” Đổng Chi Hiệp chắp tay sau lưng cảm khái, “Có điều từ khi Thanh đế tại vị tới nay, nuôi toàn hổ sói, quân phiệt hỗn chiến, cường đạo ra đời chẳng lẽ còn ít? Chủ nghĩa này chủ nghĩa kia, không có mười thì cũng có tám cái, hồng trắng bạch từ nam chí bắc đã đánh nhau không ít năm, thủ đô đã thất thủ rồi mới miễn cưỡng hợp lực lại với nhau, nhưng kể cả có vậy thì sao chứ?”

*Chủ nghĩa Bismarck: Otto von Bismarck là một chính trị gia người Đức, ông là người lãnh đạo nước Đức và châu Âu từ năm 1862 đến năm 1890, khi bị vua Wilhelm II ép từ chức. Năm 1871, sau chiến thắng các cuộc chiến tranh với Đan Mạch, Áo, Pháp ông đã thống nhất các bang Đức (ngoại trừ nước Áo) thành một Đế quốc Đức hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của Phổ. Sau đó, ông xây dựng cục diện cân bằng quyền lực, duy trì thành công nền hòa bình ở châu Âu từ năm 1871 đến 1914.

Khâu Giác Phi cười cười: “Không thể nào, cho dù có là đồng sàng dị mộng, cho dù lòng mang mưu mô, chỉ cần bây giờ hợp binh lại một chỗ loại bỏ kẻ xâm lược, thì không liên quan gì tới chủ nghĩa cường đạo cả. Sau khi kháng chiến giành thắng lợi, ai tranh đấu, ai giành thiên hạ, ai nắm chính quyền, đó mới thực sự là dùng thực lực, dùng chủ nghĩa để nói chuyện.”

Đổng Chi Hiệp lắc đầu: “Dù sao thì từ khi ra Bắc Bình thành, tôi cũng đã nghĩ kĩ rồi, tôi có thể quan tâm tới chính trị, nhưng tôi quyết sẽ không dấn thân vào bất kì vận động, sự hy sinh đổ máu nào, vì dân tộc quốc gia, Đổng Chi Hiệp tôi không hai lời, nhưng nếu vì lí tưởng gì đó, tôi đây làm không nổi.”

“Được rồi, được rồi, đừng nói tới quốc sự nữa, một đám các cậu, có thấy phiền không hả.” Tôn Hành không nhịn được cắt lời họ.

Khâu Giác Phi nhận lỗi: “Xin lỗi.”

Mọi người trải đệm được người huyện cho mượn lên mặt đất, sôi nổi nằm xuống, dù sao cũng là mười mấy nam thanh niên, ở trong một cái miếu nhỏ rách nát cũng thực sự có chút giật gấu vá vai.

“Độ cao của nơi này là bao nhiêu so với mặt nước biển?” Qua hồi lâu, đột nhiên Giang Sầu Dư hỏi.

Đổng Chi Hiệp trả lời ngay: “Tầm hai nghìn, sao vậy?”

“Sắp tới Vân Nam rồi.” Giang Sầu Dư lẩm bẩm.

Khâu Giác Phi lại lập tức xoay người hỏi: “Lạnh à?”

Giang Sầu Dư lắc đầu: “Vẫn ổn.”

Khâu Giác Phi thò tay ra xem thử, đắp chăn của mình lên người cậu: “Dù sao cũng vào trong núi rồi, phải giữ ấm một chút, đêm lạnh lắm.”

“Vậu còn cậu?” Giang Sầu Dư kéo chặt chăn, hỏi.

Khâu Giác Phi cười phụt: “Đừng kéo chặt như vậy, cho cậu rồi tôi sẽ không đòi lại. Với lại đàn ông Đông Bắc chúng tôi không sợ lạnh.”

Giang Sầu Dư nghĩ ra vài câu trêu chọc, nhưng cảm giác buồn ngủ theo hơi ấm đánh úp, trong giây lát cậu nặng nề chìm vào giấc ngủ.

Nửa đêm, cậu bị tiếng ve kêu đánh thức, vừa quay đầu lại phát hiện Khâu Giác Phi đang đắp hết quần áo lên người, cuộn tròn lại ở đó, cau mày. Cậu ngơ ngác nhìn chằm chằm Khâu Giác Phi một hồi lâu, không nhịn được mắng: “Đồ ngốc…”

Ngày hôm sau, khẩu lệnh tập hợp vang lên, Khâu Giác Phi buồn ngủ mông lung mở mắt tỉnh dậy, lại phát hiện trên người mình không biết đã nhiều thêm một cái chăn nữa từ khi nào, mà bên cạnh lại có thêm một Giang Sầu Dư đang ngủ tới bất tỉnh nhân sự.

“Còn chưa dậy nổi sao? Chúng ta phải lên đường rồi!” Đổng Chi Hiệp giọng lớn tới kinh thiên động địa.

Khâu Giác Phi đáp lời: “Tới ngay đây!”

“Sầu Dư, nên dậy rồi.” Anh lắc lắc Giang Sầu Dư, nhẹ giọng nói.

CHÚ GIẢI:

– Vĩnh Ninh: là một huyện thuộc địa cấp thị Ngân Xuyên, Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

– Bình Di: bây giờ là huyện Phú Nguyên, ở phía Đông tỉnh Vân Nam, phía Đông thị Khúc Tĩnh.