Cứ vậy, hơn một tháng trôi qua, Khâu Giác Phi và Giang Sầu Dư thường xuyên gặp nhau nâng chén tâm sự, thỉnh thoảng những người khác cũng sẽ gia nhập với hai người, nhưng đại đa số, ai cũng đều bận tới tối cả mắt lại.
Rốt cuộc, giữa mùa hè nóng bức ấy, tin Hoa Viên Khẩu vỡ đê* được truyền tới Côn Minh, mọi người đều tự phát quyên tiền, chỉ đành làm khó người dân, ở nơi quyên tiền, Khâu Giác Phi lại lần nữa gặp được Tôn Hành và Đổng Chi Hiệp.
*Hoa Viên Khẩu vỡ đê: Ngày 19/5/1938, Từ Châu bị công hãm, Trịnh Châu nguy cấp, Vũ Hán chấn động. Để ngăn cản quân Nhật tiến về phía tây, ngày 9/6, chính phủ Quốc dân quyết định “lấy nước chặn binh, hạ lệnh dỡ bờ Nam cửa sông Hoàng Hà – Hoa Viên Khẩu, Trịnh Châu, cách nội thành tỉnh Hà Nam 17 km về phía Bắc, nhân đê Hoàng Hà vỡ làm thay đổi tuyến đường, gây ngập lụt, gián tiếp gây ra nạn đói cực kì bi thảm ở Hà Nam năm 1942.“Lâu rồi không gặp!” Khâu Giác Phi không khỏi ngạc nhiên, mừng rỡ.
“Úi chà, Khâu huynh cũng tới quyên tiền à?” Đổng Chi Hiệp thốt lên.
Khâu Giác Phi gật đầu: “Một ít thôi, nhưng vẫn muốn dành chút tấm lòng.”
“20 pháp tệ? Thế cũng không tính là ít.” Đổng Chi Hiệp khen ngợi, “Chúng ta đều là sinh viên nghèo, có chút bạc cũng là cố moi từ kẽ răng ra.”
Tôn Hành mang giọng điệu bất thiện nói: “Đúng là đời mà, không có tiền phải ăn mặc cần kiệm vẫn làm việc thiện, mà có tiền ăn chơi đàng điếm lại giấu túi tiền kĩ muốn chết.”
Đổng Chi Hiệp không tán đồng: “Đừng nói bậy.”
“Chẳng lẽ không phải?” Tôn Hành bĩu môi, “Khâu huynh, cậu vẫn chưa nghe nói tới phải không?”
Khâu Giác Phi không hiểu ra làm sao: “Có chuyện gì?”
“Giang Sầu Dư lén lút mua nhà mua cửa, tận một vạn đấy.” Tôn Hành trưng ra vẻ mặt vừa ghen tị vừa hâm mộ, “Vậy mà lúc quyên tiền này, cậu ta không moi ra được một xu, cậu nhìn xem…”
Khâu Giác Phi cười cười: “Hẳn là cậu ấy có suy tính, cũng có nỗi khổ riêng thôi.”
Sau khi nói lời tạm biệt với hai người Đổng, Tôn, Khâu Giác Phi xắn tay áo, kẹp sách vở, ngồi lên xe điện đi tới trường tiểu học gần đó dạy học hộ. Cảnh vật ngoài cửa sổ dần trôi qua, Khâu Giác Phi chợt nhớ tới vẻ mặt muốn nói rồi lại thôi của Giang Sầu Dư ở quán ăn món cay Tứ Xuyên ngày ấy, không khỏi tự giễu cười cười.
Giang Sầu Dư ngồi trên ghế xích đu trong sân, ngẩng đầu nhìn đám mây tan rồi lại hợp, bầu trời Côn Minh tựa như xanh hơn, cao hơn Bắc Bình rất nhiều, nhưng cậu lại hoài niệm đàn bồ câu hay bay qua bay lại trên không trung Bắc Bình, hoài niệm ráng đỏ nhuộm nửa bầu trời thành màu hồng những buổi chạng vạng chiều hôm.
Đã gần một tháng nay không có liên lạc gì với Khâu Giác Phi, người kém giao tiếp với người khác như Giang Sầu Dư cũng đã mẫn cảm nhận ra được, đối phương hình như đang vô tình cố ý tránh né mình.
Chuyện gì cũng đều phải có nguyên nhân, Giang Sầu Dư nghĩ mà chua xót, có lẽ hơn phân nửa là bản thân quá nhạt nhẽo, rốt cuộc cũng làm cho cậu ấy phiền chán.
Việc học tiến hành một cách lộn xộn, chậm trễ trong cơn chiến sự, nếu không có gì bất ngờ xảy ra, đến năm Dân quốc thứ ba mươi, (tức năm 1941), họ sẽ thuận lợi tốt nghiệp. Tính toán, cũng chỉ còn dư lại ba năm để cậu suy nghĩ về nhân sinh, lên kế hoạch cho tương lai.
Nhưng bây giờ cậu chỉ cảm thấy bàng hoàng.
“Thiếu gia, thư của cậu.” Lo cho sinh hoạt của cậu, cha mẹ cậu lệnh cho một người hầu già ngàn dặm xa xôi đi tới Vân Nam, làm cho Giang Sầu Dư cảm thấy cực kì áy náy.
“Đa tạ chú Lý.” Giang Sầu Dư nhận thư, rất kinh ngạc phát hiện đây là thư do Tiết Ngưỡng Thiều gửi tới, xem xong lá thư, cậu đột ngột đứng dậy, chấn động.
“Thiếu gia?” Chú Lý lo lắng hỏi thăm.
Giang Sầu Dư che giấu, cười cười: “Không sao, cháu hơi mệt thôi.” Dứt lời, cậu quay người trở về phòng, đóng chặt cửa.
Mưa Côn Minh tuy không dồi dào như Giang Chiết, nhưng nếu đã tới mùa mưa, thì sẽ mưa mãi không ngừng, đường phố lầy lội, hội quán quanh năm không tu sửa, nóc nhà dột nát, làm các bạn học kêu khổ không ngừng.
Khâu Giác Phi đang che đầu sửa nóc nhà, lại nghe tiếng bạn học gọi: “Khâu Giác Phi, ngoài cửa có người tới tìm!”
Thở dài, Khâu Giác Phi ỉu xìu đáp lại: “Tôi biết rồi!”
Ngoài dự đoán chính là, vừa mở cửa đã thấy Giang Sầu Dư bung dù đứng giữa cơn mưa, vạt áo dài màu thiên thanh đã ướt đẫm từ lâu.
“Sầu Dư? Sao cậu lại tới đây?” Khâu Giác Phi ngơ ngác hỏi.
Giang Sầu Dư che ô về phía anh, mở miệng lại nói ra câu: “Xin lỗi.”
Khâu Giác Phi không đáp lại, trong đáy lòng lại chậm rãi chảy ra nỗi niềm chua xót.
“Xin lỗi.” Giang Sầu Dư cúi đầu, như đứa trẻ phạm sai lầm, “Con người tôi tuy không được nhanh nhạy, hay đắc tội người ta mà không biết, tuy không rõ là vì sao, nhưng tôi nghĩ lần này cậu giận tôi tới vậy, hơn phân nửa chính là do tôi đã sai rồi.”
Cậu cúi đầu, mặt mày thanh tuấn tựa như mang theo hiu quạnh vô tận, Khâu Giác Phi nhẹ giọng đáp: “Tôi chưa từng tức giận.”
Giang Sầu Dư ngước mắt, lẳng lặng nhìn anh.
Khâu Giác Phi cười khổ: “Trước đó tôi từng nói muốn tâm hoài quang minh, bây giờ xem ra tôi rốt cuộc cũng chỉ là tên tiểu nhân âm u.” Thấy Giang Sầu Dư trầm mặc không nói, anh mở miệng: “Nơi này không phải là nơi nên nói chuyện, mưa lớn như vậy, vào rồi hãy nói.”
Giang Sầu Dư lắc đầu: “Bên trong nhiều người nhiều tai, không bằng…” Cậu chần chờ đề nghị: “Nếu cậu không vội, hay là đi tới hàn xá của tôi một chuyến?”
Khâu Giác Phi nhận lấy ô trong tay cậu: “Cầu còn không được.”
Nhà Giang Sầu Dư không lớn, ba gian hai xép thêm một đình viện, không so được với đủ loại tứ hợp viện* nhan nhản ở Bắc Bình. Có điều có thể nhìn ra được chủ nhân đã khá tốn tâm tư, từng gốc cây, từng viên gạch, từng mảng ngói đều nhìn ra được sự dốc lòng bài trí.
*Tứ hợp viện: Tứ hợp viện còn được gọi là Tứ hợp phòng, là một hình thức kiến trúc tổ hợp của nhà dân vùng Hoa Bắc Trung Quốc, với bố cục là xây nhà bao quanh một sân vườn theo bốn hướng Đông Tây Nam Bắc, thông thường gồm có nhà chính tọa Bắc hướng Nam, nhà ngang hai hướng Đông – Tây và nhà đối diện với nhà chính, nhà bốn phía bao quanh sân vườn ở giữa, cho nên được gọi là Tứ hợp viện.Chú Lý đã chuẩn bị sẵn khăn nóng cho họ lau mặt, lại dâng nước trà lên, rồi đóng cửa lặng lẽ rời khỏi.
Khâu Giác Phi hít sâu một hơi: “Chuyện trước đó…”
Giang Sầu Dư cắt lời anh: “Tôi nghĩ rồi, chỉ sợ vẫn là do căn nhà này gây ra phiền toái, tôi vốn định nói cho cậu, nhưng lại cảm thấy giống như đang khoe khoang, thế nên…”
Khâu Giác Phi lắc đầu: “Tôi xa cách cậu không phải là do trách cậu giấu giếm, chẳng qua là muốn tị hiềm.” Thấy sắc mặt Giang Sầu Dư không tốt, anh nhanh chóng bồi tội: “Là tôi tục tằng nông cạn.”
Giang Sầu Dư cười lạnh: “Xem ra Khâu huynh quý nhân hay quên, hiển nhiên đã quên lần kết nghĩa bái lạy kia cùng ai kia rồi.”
Khâu Giác Phi đứng lên, liên tục chắp tay bồi tội: “Nhất thời hồ đồ, nhất thời hồ đồ.”
Giang Sầu Dư buông chén, cao giọng: “Giang mỗ tôi còn không biết bản thân lại khiến người ta không muốn nhận như vậy, gặp mặt tôi còn phải tránh tai mắt của người khác, xem ra Khâu huynh khinh thường không muốn làm bạn với tôi.”
Thấy Khâu Giác Phi co quắp bất an, vẻ mặt lo sợ không yên, cậu mới cười thành tiếng: “Được rồi, Giác Phi huynh cũng không cần phải chú ý như thế. Vừa rồi trêu cậu một chút thôi, cho cậu cũng nếm mùi vị lo lắng hãi hùng thử xem.”
Khâu Giác Phi dở khóc dở cười nhìn cậu: “Cậu… được rồi, lần này coi như tôi nợ cậu.”
Giang Sầu Dư khẽ thở ra, chậm rãi nói: “Có điều, tôi mong cậu nhớ kĩ, tương giao với một người, quý là ở tri tâm. Thử hỏi nếu tôi nghèo rớt mồng tơi, chẳng lẽ cậu sẽ không nhận làm anh em với tôi nữa?”
Khâu Giác Phi sờ sờ mũi, ho nhẹ một tiếng nói lảng sang chuyện khác: “Hôm nay cậu tìm tôi, chắc chắn không chỉ có chuyện này?”
Giang Sầu Dư đã phát tiết hết bực bội trong lòng ra với anh, tâm tình đã thoải mái hơn nhiều, lúc này nhờ có anh nhắc nhở, mới nhớ ra lí do lúc đầu: “Chuyện này tuy không phải là đại sự gì, nhưng…”
“Làm sao?”
Giang Sầu Dư hạ giọng, vẻ mặt khẩn trương: “Tôi có một người bạn nối khố, cậu ấy đã đầu Cộng rồi!”