Một Hồ Sen Xanh Đợi Trăng Lên

Chương 80: Núi xanh cô quạnh tin báo xa

Cố Đan Nham vẫn còn nhớ rõ lúc đầu xuân năm nay, vì muốn tìm Hoàn Nhi mà đưa tiểu sư đệ xuống núi La Phù và đến Nga Mi, ấy cũng là lần đầu tiên anh nhìn thấy Lam Hạo Nguyệt. Để rồi đến khi cô gái dễ vui dễ giận này đến Lĩnh Nam, anh đã phát giác được sự khác thường. Thế nhưng Cố Đan Nham luôn nghĩ rằng, với bản tính của sư đệ, có thể tỉnh táo xử lý tốt việc này.

Nhưng anh đã sai rồi .

Từ khi anh và Trì Thanh Ngọc xuống núi lần nữa vì Lam Hạo Nguyệt, mọi chuyện đã từ từ lệch khỏi quỹ đạo ban đầu.

Trong mưa gió, thậm chí Trì Thanh Ngọc còn đưa nàng rời đi, không muốn trở về thanh tu.

Để rồi đến ngày tuyết đầu mùa phủ trắng núi, chẳng biết Lam Hạo Nguyệt đi đâu, Trì Thanh Ngọc xa cách đã lâu bị để lại một mình trong tuyết trên núi hoang. Một đường kiếm lạnh lẽo trắng xóa đã hoàn toàn phá mất sự tĩnh lặng.

Kiếm thuật của sư đệ được luyện thành trong một thời gian dài. Vì mắt bị mù, Trì Thanh Ngọc ra chiêu nhanh, ác, không chừa đường sống, thế nhưng Cố Đan Nham lại không hề ngờ rằng, cũng có ngày mũi kiếm sắc bén kia lại là dùng cách thức ấy xẹt qua hai mắt Trì Thanh Ngọc.

Cổ kiếm bi thương rơi xuống, bên môi Trì Thanh Ngọc lại nhếch lên nụ cười thê lương, máu tươi đến gai mắt nhỏ xuống đất. Trong đất trời trắng xóa tuyết rơi, chàng ngã quỵ nặng nề, không một tiếng động.

Dù đã trải qua một thời gian dài, thế nhưng cảnh đó, luôn đâm sâu vào lòng Cố Đan Nham.

Ngày đêm dưỡng thương ở Hành Dương, Cố Đan Nham và Hoàn Nhi không dám rời Trì Thanh Ngọc nửa bước. Lúc đắp bột thuốc để cầm máu lên vết thương, Trì Thanh Ngọc vốn đã hôn mê mà bị đau đến mức phải tỉnh lại, thế nhưng chàng lại không phát ra bất kì một âm thanh nào, chỉ bám chặt vào ván giường, thế nhưng mười ngón tay vẫn tím xanh vì ứ máu.

Cố Đan Nham dùng hết mọi khả năng, mặc dù đã giúp chàng ngăn cản vết thương chuyển xấu, thế nhưng đôi mắt ấy, đã không thể nào mở ra được nữa.

***

Lúc bọn họ trở lại Lĩnh Nam thì đã là cuối năm.

Sư đệ ngày đó cùng giục ngựa rời đi với anh, nay đã mang một dáng vẻ hoàn toàn khác trở về nơi đất rừng trùng điệp này. Từ sau khi rời khỏi Hành Dương, Thanh Ngọc liền không nói một câu. Suốt dọc đường, Cố Đan Nham cố dằn nỗi đau trong lòng, nhẹ nhàng khuyên nhủ Thanh Ngọc suốt, thế nhưng chàng vẫn không để lộ bất kì biểu cảm này.

Vết thương của Trì Thanh Ngọc đã từ từ khép miệng, thế nhưng trên mắt vẫn băng kín tầng tầng lớp vải chắn. Thanh Cổ kiếm vấy máu của chàng, cũng chẳng còn được đeo ở sau vai nữa.

So với đất Tương Sở, mùa đông ở Lĩnh Nam ấm áp hơn nhiều, nhưng dù vậy, khi bọn họ trở về chân núi La Phù thì gió núi cũng có mấy phần rét lạnh. Đường núi không dễ đi, Cố Đan Nham đỡ sư đệ cũng cảm thấy rõ rằng hoạt động của chàng chậm hơn trước đây.

Chàng không nói không cười, không giận cũng chẳng buồn.

Máu đã sớm khô từ lâu, càng không có nước mắt.

Khuôn cằm đẹp đẽ kia mím chặt, tựa như chẳng ai có thể khiến chàng mở miệng, cho dù chỉ là một câu nói đơn giản nhất.

Trong gió đêm, lá xanh chưa rụng đung đưa theo gió, mang tới một khung cảnh loang lổ tiêu điều. Xa xa, có tiếng chuông thăm thẳm lành lạnh như có như không truyền tới, đó là tiếng chuông bắt đầu giờ tụng kinh buổi tối ở Thần tiêu cung. Trì Thanh Ngọc như cái xác không hồn, nghe thấy tiếng chuông ấy, bỗng khựng bước chân.

Cố Đan Nham ngẩn ra, Hoàn Nhi đang cúi đầu đi theo sau cũng ngạc nhiên, “Tiểu sư thúc, sao vậy ạ?”

Trì Thanh Ngọc vẫn không nói gì, thế nhưng ngẩng mặt lên, vẹt cành lá hai bên người, bước đi theo âm thanh kia.

“Thanh Ngọc!” Cố Đan Nham ở phía sau đuổi theo. Trì Thanh Ngọc lại chẳng mảy may dừng bước. Con đường núi này vốn chẳng xa lạ với chàng, thế nhưng đôi lúc sẽ có cây cỏ mọc dại ngáng chân chàng, ấy mà tựa như Trì Thanh Ngọc chẳng hề có chút cảm giác gì, dù bước đi khó khăn, vẫn đi một mạch về phía trước không dừng.

Cố Đan Nham và Hoàn Nhi thấy chàng như vậy, cũng không dám giữ chặt, chỉ đành theo sát ngay sau, sợ chàng xảy ra chuyện.

Tiếng chuông ngân ngày càng gần, chuông đồng trên đỉnh Phi Vân khẽ rung lên, miếu đạo nguy nga trang nghiêm thấp thoáng trong mây mù. Đường đá hun hút, bóng người thấp thoáng, từ xa có thể nhìn thấy rõ Lâm Bích Chi và Trình Tử Nguyên đang lướt nhanh tới, Tố Hoài Tố Hoa cũng cầm phất trần trong tay đi theo bên cạnh.

Có lẽ bọn họ đã nhận được thư Cố Đan Nham gửi về, biết hết mọi chuyện xảy ra đối với Trì Thanh Ngọc. Thế nhưng dù vậy, khi mọi người nhìn thấy lớp vải trắng băng trên mắt chàng, trên mặt đầy vẻ đau đơn. Thế nhưng Trì Thanh Ngọc bất kể mọi người kêu gọi thế nào, chàng né cánh tay của Trình Tử Nguyên, lảo đảo chạy lên thềm đá, đưa tay sờ lên cổng chính sơn son, ngẩn người, sau đó đi tới đại điện mà xưa nay luôn ngồi thiền thanh tu.

Chàng thậm chí không dùng gậy trúc để dò đường, bước chân loạng choạng, thân ảnh thê lương, một mình bước đi dưới ánh trăng lạnh lẽo.

Đẩy cánh cửa nặng nề, mùi tùng hương quen thuộc lại phe phẩy trên người, nháy mắt, tựa như tâm hồn đang hỗn độn của Trì Thanh Ngọc đã bị đánh nát. Chàng gần như đã ngã vào đại điện, sờ soạng, quỳ xuống lê bước tới trước tượng Thần, ngón tay chạm xuống mặt đất lạnh lẽo, chàng lại tiếp tục sờ soạng lên, đó là nơi vốn để dâng hương cầu khấn.

Phía trước có hơi ấm, dù chàng không thể nhìn được nhưng luôn biết, đèn hoa sen chàng đốt vẫn luôn ở chỗ cũ.

Trong Thần tiêu cung này, tất cả mọi thứ vẫn không thay đổi, gió đêm yếu ớt kéo qua mái hiên treo chuông, phát ra tiếng rít nhỏ. Môi Trì Thanh Ngọc run run, chàng đưa tay đụng đến bệ đèn hoa sen. Ánh nến trước mặt chàng lay lay, chiếu lên miếng vải trắng trước mắt chàng, trông càng thê lương lãnh đạm.

Đã lâu lắm rồi chàng không về lại nơi đây.

Bỗng nhiên Trì Thanh Ngọc chỉnh đốn tà áo xanh, cố gắng quỳ thẳng người, cung kính hành lễ với tượng Thần tu hành trước mặt.

Lúc này đám người Cố Đan Nham lặng lẽ đứng ngoài điện, nhưng bóng lưng cô tịch của chàng mà không đành lòng. Bên trong tĩnh lặng, mơ hồ nghe thấy tiếng tụng kinh trầm thấp của chàng.

Âm thanh ấy nhỏ đến mức gần như không thể nghe thấy, lại còn khàn đặc, dù đứt quãng nhưng vẫn không dừng lại.

Tịch tịch chí vô tông, Hư trĩ kiếp nhẫn a, Khoát lạc động huyền văn, Thuỳ trắc thử u hà.

Nhất nhập đại thừa lộ, Thục kế niên kiếp đa, Bất sanh diệc bất diệt, Dục sanh nhân liên hoa…

Bọn họ đứng ngoài cửa một hồi lâu, Trì Thanh Ngọc như đã bị nhập ma, cứ run rẩy rì rầm kinh văn thuộc lòng. Trong mắt Lâm Bích Chi lấp lánh ánh nước, muốn bước vào thì nghe thấy đằng sau có tiếng bước chân tới gần. Mọi người nghe thấy tiếng liền quay đầu, chỉ thấy Hải Quỳnh Tử một thân áo trắng đang lặng lẽ đi tới.

“Sư tôn…” Lâm Bích vừa mở miệng thì Hải Quỳnh Tử đã lắc đầu ý bảo đừng lên tiếng.

“Đừng quấy rầy thằng bé.” Hải Quỳnh Tử thấp giọng nói, đi tới trước cửa đại điện. Khuôn mặt mọi người chất chứa âu lo, thế nhưng thấy sư phụ đã lên tiếng, chỉ đành chầm chậm lui ra sau.

***

Suốt đêm đó, Trì Thanh Ngọc vẫn luôn quỳ gối trước tượng Thần, tụng kinh văn bằng giọng nói trầm khàn yếu ớt, mãi đến bình minh.

Chàng đã quỳ trong đại điện hai ngày hai đêm.

Hải Quỳnh Tử và các đồ đệ khác cũng đứng chờ ngoài điện hai ngày hai đêm.

Mỗi lần Tố Hoa Tố Hoài mang đồ ăn vào, Trì Thanh Ngọc không hề ăn một miếng. Đến chạng vạng ngày thứ ba, Hoàn Nhi khóc lóc cầu xin Hải Quỳnh Tử bắt tiểu sư thúc ăn uống nghỉ ngơi, Hải Quỳnh Tử thở dài mang một chén nước trà ra, giao cho cô bé.

Hoàn Nhi rơi nước mắt, nơm nớp nâng chén trà vào đại điện. Ánh nến trong đại điện chiếu lên bóng lưng cô độc lẻ loi của Trì Thanh Ngọc. Cô bé dè dặt quỳ gối bên cạnh, đưa chén trà lên bờ môi chàng. Môi chàng đã khô nức trắng bệch, khoảnh khắc ấy cảm giác có người đến gần, thế nhưng vẫn đờ đẫn như trước, cố sức xoay mặt đi.

“Tiểu sư thúc, người không muốn sống nữa sao?! Tại sao lại đối xử với bản thân mình như thế?!” Nước mắt của Hoàn Nhi rơi từng giọt từng giọt vào trong chén nước trà.

Vì mắt quấn vải trắng nên cô bế không thể nào biết được vẻ mặt chàng. Hoàn Nhi nắm bàn tay lạnh lẽo của Trì Thanh Ngọc, đặt lên má mình, khóc nói, “Chị ta đã bỏ người rồi, chẳng lẽ tụi con nhiều người thế này, cũng đều không đáng để người lưu luyến sao?”

Ngón tay chàng cứng đờ co quắp, vừa chạm vào da thịt cô bé liền nhanh chóng né ra, tựa như đang sợ hãi điều chi.

Đằng sau có người từ từ bước đến, Hoàn Nhi nức nở xoay người, Hải Quỳnh Tử cầm thanh Cổ kiếm đan xen xanh trắng đi tới trước tượng Thần. Râu tóc của ông bạc trắng, trong mắt luôn hàm chứa ý cười nay cũng mang vẻ nặng nề phiền muộn. Hoàn Nhi cúi đầu đứng dậy, lặng lẽ lùi ra ngoài cổng.

“Thanh Ngọc, con không cần kiếm này nữa sao?” Hải Quỳnh Tử cúi người, nhẹ nhàng đặt Cổ kiếm vào tay chàng.

Tay chàng khẽ run lên, thân mình vốn thẳng tắp nay như mất hết sức lực, sống lưng từ từ cong gập. Ánh nến trong đèn hoa sen lay lay, càng khiến lớp vải thưa trước mắt chàng trở nên trắng bệch đến gai mắt. Bờ môi chàng run run, hình như đang nói gì đó, nhưng vì quá yếu ớt nên dù Hải Quỳnh Tử đang ở trước mặt cũng không thể nghe rõ lời chàng.

Trì Thanh Ngọc lại buông lỏng tay, để Cổ kiếm rơi xuống đất, phát ra tiếng động thê lương.

Hải Quỳnh Tử cau mày, lúc này mới có thể nghe được câu nói rã rời mà Trì Thanh Ngọc cứ lặp đi lặp lại: “Không có ích gì… đều không có ích gì, không cần nữa rồi…”

“Ngày đó thầy dạy con luyện kiếm tập võ, ban đầu chỉ vì muốn để sức khỏe của con tốt lên, thế nhưng vì thấy con có thiên phú như vậy, mới cảm thấy tài năng của con chớ nên bị chôn vùi.” Hải Quỳnh Tử vén trường bào, ngồi xuống bên cạnh chàng, “Bây giờ con nói không cần kiếm này nữa, thầy cũng không nổi giận… Chỉ là, con oán hận Cổ Kiếm này, hay oán hận bản thân?”

Trì Thanh Ngọc ngồi ngẩn ngơ, Hải Quỳnh Tử lại cầm Cổ kiếm, đặt vào tay chàng. Chàng đờ đẫn từ từ nắm vào vỏ kiếm, bỗng nhiên trong lúc đó, nỗi đau khi lưỡi kiếm lướt qua mắt ngày hôm đó lại một lần nữa xâm chiếm toàn thân. Nỗi đau ấy, có thể khiến chàng không thể nào ngồi thẳng được nữa, suy sụp đổ rạp người trước tượng Thần, cả người không kiềm được run rẩy.

“Thanh Ngọc!” Hải Quỳnh Tử đỡ vai chàng.

“Con không nên xuống núi!” Trì Thanh Ngọc vùi mặt trong chỗ tối, giọng nói khản đặc. Mấy ngày qua, chàng không ngủ không nghỉ, Hải Quỳnh Tử vốn cho rằng chàng đã không còn sức để gắng gượng nữa, thế nhưng bây giờ Trì Thanh Ngọc lại như con thiêu thân bay về ngọn lửa, muốn hao hết chút sức lực cuối cùng.

“Con không nên xuống núi!” Chàng lại khàn giọng kêu lên, đột nhiên mò mẫm tìm đến Cổ Kiếm, nắm chặt nó trong tay, “Sư phụ, con đã ném mọi thanh quy giới luật sau đầu, tự làm tự chịu! Xin người hãy thu hồi Cổ kiếm, đừng để nó phải chịu sỉ nhục …”

“Con không muốn tập võ nữa sao?” Hải Quỳnh Tử trầm giọng nói.

“Vô dụng! Vô dụng, vô dụng! Biết kiếm thuật thì thế nào?! Từ đầu đến cuối đều chỉ vô dụng!” Chàng như phát điên, hai tay nắm chặt vỏ kiếm run run, đột nhiên lại đặt kiếm trên chiếc bàn dài trước tượng Thần, còn bản thân thì dùng hết sức lực phủ phục cạnh bàn, tay nắm chặt tro trong lư hương.

Hải Quỳnh Tử nhìn bóng Trì Thanh Ngọc, ông biết cậu học trò lấy băng tuyết làm tim, gió bão làm xương cốt của mình nay chỉ còn là một xác thịt chằng chịt thương tích.

Ông thở dài một hơi, tay xoa lên tấm lưng run rẩy của Trì Thanh Ngọc, “Một khi đã vậy, kiếm của con, bây giờ thầy sẽ thu về…”

Cổ kiếm trên bàn được Hải Quỳnh Tử lấy đi, Trì Thanh Ngọc vẫn phủ phục vô lực, hơi thở dồn dập mà yếu ớt. 

“Thanh Ngọc, mấy ngày sau thầy sẽ đi xa, con có muốn đi cùng?” Hải Quỳnh Tử thong thả nói.

Trì Thanh Ngọc chầm chậm đứng dậy, giữa ngón tay chàng vương đầy tro của tàn hương, rơi lả tả xuống đất.

“Sư phụ, đi đâu…”

“Trời cao đất rộng, năm sông bốn biển, thả thuyền trôi đi, theo sóng mà đến, ngừng ở nơi đâu, thì là nơi đó.”

“Khi nào trở về?”

“Khi muốn về thì về, không muốn về thì lấy mây khói núi rừng làm chỗ ở, cần chi phải để tâm mình từng ở đâu?”

Trì Thanh Ngọc mím chặt môi, mãi lâu sau mới nói, “Con đi.”

***

Người tu đạo không để ý đến đoàn viên sum vầy, tháng chạp xuân sang, Hải Quỳnh Tử mang áo tơi nón lá, vác hành lý trên lưng, mang theo Trì Thanh Ngọc chỉ còn da bọc xương rời đi.

Trước khi xuống núi, theo như thỉnh cầu của Trì Thanh Ngọc, mọi người Thần tiêu cung làm chứng, sư tôn trao bùa, cài khăn quan cho chàng.

Chàng nhận lưỡi đao lạnh lẽo của Lâm Bích Chi, trong tiếng chuông khánh và tiếng tụng kinh vang rền, cắt một đoạn tóc, ném trong gió.

Lụa trắng trước mắt được đổi thành miếng vải mày xanh nhạt, đạo bào màu đen như mực, tóc cài trâm ngọc trắng hình tiên hạc, đã ngưng kết bóng dáng chàng thành sương.

Khi kết thúc lễ nghi, chàng bước từng bước xuống thềm đá, không có nửa phần ý niệm quay đầu. Sau lưng chàng vẫn là đai lưng bạc như cũ, thế nhưng trong đó lại trống rỗng, không còn tung tích của Cổ kiếm nữa.

“Tiểu sư thúc!” Hoàn Nhi không nhịn được lao khỏi đám người, đứng trên bậc thang cao nhất gọi về phía bóng lưng đã rời xa của chàng.

Chàng chỉ hơi khựng lại, thế nhưng lại lập tức bước nhanh hơn, theo sát sư phụ, khuất mình trong bóng núi mênh mông mịt mù.