Quỷ Bí Chi Chủ

Quyển 3 - Chương 11: Đi săn

______

“Thưa ngài Arrodes đáng kính, câu hỏi thứ hai của tôi là, Sherlock Moriarty đã làm cách nào để thoát khỏi tàn tích ngầm?” Tâm trạng của Ikanser thoải mái hơn trước rất nhiều.

Mặt gương bạc chiếu ra vầng sáng lập lòe, nhanh chóng phác họa lên hình ảnh Sherlock Moriarty dựa lưng vào tường, bàn tay lúc thì nắm chặt, khi thì buông ra.

Sau đó, Ikanser Bernard cùng các Chấp sự và đội trưởng Trái Tim Máy Móc đứng xung quanh đều nhìn thấy nụ cười khoa trương của vị thám tử tư trước khi hắn xoay người lại, rút súng xông ra ngoài.

Bấy giờ, dưới ảnh hưởng của bản phác họa, trong lòng họ đều dâng trào cảm giác bi tráng và sục sôi khó mà giải thích.

Hình ảnh trong gương thoáng vọt ra, hiển hiện một Sherlock Moriarty cầm súng ngắn bắn thẳng vào tế đàn trong vô vọng. Cảnh tượng những viên đạn phi phàm vỡ nát khiến mọi người có mặt tại đây đều lo lắng.

Tiếp theo, Sherlock Moriarty ném một chiếc chìa khóa bằng đồng ra, tế đàn bị ô nhiễm, bắt đầu xuất hiện dấu hiệu bất ổn định.

Sóng xung kích bộc phát, ngài A ngã xuống đất, Sherlock Moriarty chạy ra khỏi kiến trúc như thần miếu trong bộ dạng vô cùng chật vật.

Đến thời điểm này, hình ảnh lại thay đổi. Dòng sông Tussock đục ngầu trở thành bối cảnh chính. Sherlock Moriarty và ngài A trôi nổi lơ lửng trên mặt nước, nhìn lên bầu trời quang đãng không một áng mây, không chút sương mù.

Gần như ngay lập tức, cơ thể ngài A bỗng dần trở nên trong suốt rồi biến mất tăm mất tích, chỉ để lại mỗi mình Sherlock Moriarty ngơ ngác nhìn xung quanh.

“…Quân tiếp viện của Giáo hội Đêm Tối sao?” Ikanser cau mày nói, “Xui thay, hắn không đề cập đến thứ gì đã xuất hiện vào thời điểm ấy trong bức thư. Chúng tôi không có cách nào đoán ra cả. Có lẽ hắn làm vậy nhằm cố tình rao bán bí mật này với giá tốt, hay chỉ đơn giản là bị nó ảnh hưởng nên mất sạch những ký ức liên quan? Ngoài ra, quá trình trốn thoát khỏi tàn tích dưới lòng đất của hắn chẳng mang bất cứ thông tin hữu ích nào; có lẽ các manh mối tương ứng đều bị che giấu hết rồi…”

Ông ta phân tích thật nhanh bằng những câu văn thủ tục, rồi, không mang gánh nặng tâm lý quá lớn, ông ta trao đổi đồng giá bằng cách chọn trả lời câu hỏi chứ không chọn chịu mạo hiểm.

Dường như hôm nay Arrodes không có tâm trạng đùa ác. Mình có thể tranh thủ ngay thời điểm này… Tự an ủi bản thân, Ikanser bắt đầu nhìn những con chữ đẫm máu xuất hiện trên bề mặt chiếc gương.

Hơi hồi hộp một chút, ông ta bỗng có dự cảm xấu, ngờ rằng Arrodes đã điều chỉnh xong, khôi phục lại “trạng thái”.

Từng con chữ đẫm máu ngọ nguậy, nhanh chóng hình thành một câu hỏi:

[Kẻ mà ngươi đã dâng hiến tất thảy, cố gắng hết sức để giành lấy tình cảm, để rồi đến thời khắc cuối cùng lại bỏ rơi ngươi, là ai?]

Đùng một phát, mặt Ikanser cắt không còn giọt máu, rồi sau đó lại đỏ bừng lên.

Câu hỏi này đã đâm thẳng vào một vết thương xưa cũ, thứ mà ông ta đã chôn giấu ở tận sâu trong linh hồn, khiến ông ta chẳng biết phải trả lời làm sao.

Nếu thật sự tiết lộ người ấy là ai, chưa tới đêm nay, danh tiếng của y sẽ bị hủy hoại sạch sẽ… Theo một nghĩa nào đó, mình cũng sẽ trở thành một dạng “huyền thoại”… Ikanser khó nhọc nuốt nước bọt, cay đắng trả lời:

“Tôi chọn trừng phạt.”

Một tia chớp lập tức giáng xuống, nhưng trông nó không giống cũ, không còn màu trắng bạc mà đã phai chút sắc xanh lá.

Tia sét ấy đánh thẳng vào đầu Ikanser, khiến tóc ông ta dựng đứng, tóe ra từng tia lửa điện.

Ông ta run rẩy dữ dội như vừa uống nhầm phải thuốc gây ảo giác.

Tổng Giám mục Hollamick thở dài, nhắm mắt lại rồi tự lẩm bẩm:

“Vật Phong Ấn cấp 0?”

Đến khi tỉnh lại, Ikanser mới nhìn quanh, thều thào:

“Còn một câu hỏi nữa. Chiếc chìa khóa mà Sherlock Moriarty dùng để phá hủy nghi thức hàng lâm đến từ đâu?

Trong số các người, ai sẽ sử dụng 2-111?”

Đang ngồi yên, tất cả các vị Chấp sự và đội trưởng của Trái Tim Máy Móc chợt quay sang anh nhìn tôi tôi nhìn anh, nhất thời chẳng ai dám mở lời.

Tiếng nước ào ạt đập vào mạn tàu dường như chính là âm thanh duy nhất còn sót lại trên thế giới. Biển về đêm vừa ồn ào, vừa vắng lặng.

Klein đột nhiên tỉnh giấc, mở choàng hai mắt. Hắn nhìn thấy trần nhà bằng gỗ được bao phủ bởi một bức màn sa từ mặt trăng đỏ thẫm.

Trực giác linh tính mách bảo hắn, bên ngoài đang có chuyện.

Ai đang hẹn hò à? Hắn vểnh tai lắng nghe, mơ hồ nhận ra một vài âm thanh kỳ lạ.

Sau khi ngẫm nghĩ giây lát, Klein rướn người ngồi dậy, đeo găng tay và mặc áo khoác vào.

Đồng tử của Klein trở nên sâu thẳm hơn khi hắn lấy một đồng xu ra rồi tung lên, nhanh chóng xem bói.

Sau khi nhận được gợi ý không có nguy hiểm nào, hắn bèn lấy khẩu súng lục dưới gối nhét vào túi áo.

Chuẩn bị xong xuôi, Klein mở cửa bước ra khỏi phòng, men theo âm thanh vọng lại từ trên boong.

Lúc này, đã tránh xa khỏi sự ô nhiễm từ nền công nghiệp, mặt trăng đỏ rực lặng lẽ treo trên cao, trông vừa thần bí lại vừa mộng ảo.

Cẩn thận vòng qua vài thuyền viên đang đi tuần, Klein đến khu vực phát ra động tĩnh, ngửi thấy mùi máu tươi mơ hồ.

Nhờ ánh trăng, hắn nghiêng đầu trông thấy cựu nhà thám hiểm Cleves đang ngồi xổm cạnh mạn tàu, sắp đặt cái gì đó.

Cách quý ngài này hơn chục mét, có ba người đang nấp trong bóng tối khoang tàu. Một là bạn đồng hành của Cleves, nữ vệ sĩ mặc áo khoác đen; hai người còn lại là con trai và con gái của thân chủ họ, thiếu nữ khoảng mười bốn mười lăm tuổi và quý ngài non nớt chưa tới mười tuổi.

Hai đứa trẻ trong tuổi vị thành niên đang mặc đồ ngủ bằng vải bông dày, bên ngoài mặc áo khoác nỉ. Nhìn là biết hai đứa khá vội.

Giữa cơn gió lạnh về đêm, chúng khẽ run rẩy, nhưng vẫn ngồi xổm đó với tinh thần phấn chấn, dõi đôi mắt lấp lánh nhìn chằm chằm về phía Cleves.

Chơi trốn tìm à? Klein thầm ghẹo.

Hắn cố tình bước mạnh hơn, khiến đám người Cleves nhìn sang phía mình.

“Anh bạn, có chuyện gì thế?” Klein nhớ lại thần thái của nhóm thợ săn tiền thưởng ở quận Đông mà mình quen, mở lời.

Nhưng hắn vẫn duy trì vẻ lạnh lùng và sắc sảo riêng biệt của thân phận Gehrman Sparrow.

Cleves không biểu hiện gì, chỉ nói:

“Việc riêng thôi, một cuộc đi săn tình cờ nhưng đầy mong đợi.”

Đi săn? Klein đột nhiên khá hứng thú.

Lý do hắn đặt cái tên Gehrman cho danh tính này, là để tượng trưng cho người thợ săn đầu tiên trong một trò chơi mà hắn từng chơi ở đời trước, và nó rất hợp với ý tưởng săn lùng tội ác trên biển của hắn.

Klein không vội hỏi lý do, chỉ dùng tay trái đeo Đói Khát Ngọ Nguậy chỉ vào cái bóng bên cạnh:

“Việc riêng à? Làm việc riêng ngay trước mặt thân chủ anh hả?”

Cleves đang ngồi xổm ở đó quay ra nhìn thiếu nữ và cậu bé, giọng vẫn không đổi:

“Cecile hơi bất cẩn, đánh thức Donna và Denton dậy, đành phải để bọn nhỏ đi theo.”

Thiếu nữ tên Donna nghe thấy tên mình vừa được được nhắc tới thì nhăn mũi. Cô bé tò mò, ngẩng đầu lên hỏi Klein:

“Chú ơi, chú cũng là một nhà thám hiểm à?”

Chú? Kể cả có tính tuổi ở Trái Đất, nhiều nhất thì anh cũng chỉ lớn hơn em 10 tuổi thôi! Klein buồn cười, đáp:

“Không, cháu không thể dùng từ “cũng” trong trường hợp này. Chính xác mà nói, hiện giờ chú là nhà thám hiểm duy nhất ở đây, còn họ chỉ là vệ sĩ thôi.”

Quay sang Cleves, hắn hỏi:

“Này, anh bạn, phát hiện ra con mồi nào rồi?”

Cleves nhìn làn nước biển nhuộm màu đỏ rực nhàn nhạt, đáp:

“Một con cá Người.”

Cá Người? Đó chính là sinh vật phi phàm đấy! Dù là loại cấp thấp nhất thì một người bình thường cũng chẳng đối phó được dễ dàng. Cần phải có năm, sáu người và bốn, năm khẩu súng thì mới chắc ăn được… Phải rồi, vảy của cá Người rất cứng, súng ngắn không gây ra thiệt hại đáng kể nào, phải có súng trường tự động thì mới được… Klein nhíu mày, hỏi:

“Anh định làm gì? Và làm cách nào anh biết đó đúng là cá Người?”

Cleves chỉ vào mép tàu:

“Ở vị trí này có dấu vết bị ăn mòn bởi chất nhầy cơ thể chúng tiết ra. Khoảng một, hai giờ trước, nó đã thử bò lên tàu tấn công hành khách, nhưng lúc ấy trên boong vẫn đang rất nhộn nhịp, có mặt nhiều thủy thủ và thuyền viên.”

Klein tiến lên vài bước, xác nhận đúng thật là có chút dấu vết bị ăn mòn màu xanh lá cây sẫm ở mép mạn tàu.

Hắn nhớ lại tư liệu bản thân đã từng tiếp cận ở thành phố Tingen, đối chiếu với nội dung văn bản, hứng thú hỏi ngược lại:

“Sao anh lại chắc chắn chỉ có một chứ không phải một đám?”

Hắn nhớ rõ cá Người có tập tính sống theo bầy đàn.

“Nếu là một đám, chúng đã phá luôn đáy tàu, khiến mọi người chìm xuống rồi. Hơn nữa, cá Người ở khu vực xung quanh tuyến đường này và vùng biển lân cận đã được dọn dẹp sạch sẽ. Người của Giáo hội Bão Táp cực kỳ thích săn bắt chúng.” Cleves nghiêm trang giải thích.

Đấy là bởi, chắc cá Người là một trong những vật liệu chính của Danh sách 9 “Thủy Thủ”… Klein vuốt ve khẩu súng ngắn ổ xoay trong túi áo, cười hỏi:

“Anh tự tin mình thành công chứ?”

Cleves không trả lời ngay mà mở cái bọc giấy bên cạnh ra. Trong đó có một chút nội tạng bò lợn vẫn còn dính máu. Đây là nguồn gốc thứ mùi máu tươi Klein vừa ngửi thấy.

“Tất cả cá Người đều thích loại thức ăn này, không thể cưỡng lại sức hấp dẫn của nó. Đương nhiên, món khoái khẩu nhất của loại quái vật này vẫn là nội tạng người. Vì thế, trong khá nhiều truyền thuyết trên biển đều nhấn mạnh việc phải chuẩn bị một chút nội tạng heo bò hoặc nội tạng đóng hộp.” Cleves vừa nói vừa rắc một ít hạt lên chúng, “Còn hồ tiêu thì khiến đám cá Người có cảm giác hưng phấn như khi hút ma túy, đánh mất năng lực thăng bằng. Triệu chứng này sẽ kéo dài chừng một phút, sau đó, khi trạng thái hưng phấn kết thúc, đám cá Người sẽ vô cùng mệt mỏi.”

Anh ta lấy một chiếc hộp gỗ từ trong quần áo ra, bôi thứ có màu xanh lục sẫm giống dạng cao lên mũi đinh ba, lưỡi lê và dao găm:

“Loại kem bạc hà phổ biến ở cảng Pritz là một loại đồ ngọt đặc biệt đối với con người, nhưng đồng thời lại là một chất độc chí mạng đối với máu của cá Người.

Ngoài ra, tôi còn mượn được hai khẩu súng trường từ các thủy thủ, đi kèm điều kiện không để ai lảng vảng quanh khu vực này trong hai mươi phút. Đúng là rất hao tiền tốn của, nhưng nếu có thể săn giết thành công một cá Người, tôi có thể thu về gấp mười, hai mươi, thậm chí ba mươi lần khoản chi phí bỏ ra.”

Không hổ là một nhà thám hiểm giàu kinh nghiệm, cực kỳ hiểu rõ nhược điểm và vấn đề của con mồi… Nghe anh ta nói thế, mình có cảm giác họ thật sự có khả năng săn được cá Người, kể cả khi họ không phải là Người Phi Phàm… Đối mặt với các cạm bẫy và vũ khí nóng, Người Phi Phàm Danh sách thấp thực sự không mạnh hơn người bình thường là bao… Cũng từng có Người Phi Phàm Danh sách thấp chết vì bị đám băng đảng bắn giết rồi… Song, cá Người cứ như mặc giáp toàn thân ấy, không dễ giết vậy đâu. Nó có thể bị thương, nhưng chắc gì không thể trốn thoát… Klein tò mò hỏi:

“Hình như anh từng giết kha khá cá Người rồi?”

“Nắm chắc đặc điểm của các chủng quái vật biển thường gặp chính là điều kiện tiên quyết để một nhà thám hiểm có thể sống sót.” Cleves chẳng tỏ vẻ vui sướng khi được khen ngợi, vẫn trầm tĩnh như cũ.

Thời điểm hai người trò chuyện, cô bé Donna cùng cậu nhóc Danton đang ngồi xổm trong bóng tối lắng nghe say xưa, cảm thấy như thể đó là câu chuyện thú vị nhất trên thế giới.

Ừm, mình cũng phải học hỏi thêm ở phương diện này mới được… Klein cười nói:

“Hóa ra là thế. Vậy tôi có làm phiền các anh không?”

Cleves vừa xuyên bộ nội tạng qua một cái móc cần, vừa trầm giọng đáp:

“Nếu anh muốn tham gia, vậy nhờ anh trông chừng Donna và Denton nhé, để giúp Cecile không bị phân tâm.”

“Được.” Klein chỉ muốn đứng yên bên cạnh quan sát, liền mỉm cười đồng ý.